Thập đại danh trà

Thập đại danh trà Trung Hoa là 10 loại trà được coi là nổi tiếng nhất của Trung Quốc.

Trà Xuất xứ Địa phương Loại
Trà Long Tỉnh
(龙井)
Tây Hồ, Hàng Châu Chiết Giang Trà xanh
Trà Bích Loa Xuân
(碧螺春)
Động Đình hồ, Tô Châu Giang Tô Trà xanh
Trà Thiết Quan Âm
(铁观音)
An Khê, Tuyền Châu Phúc Kiến Trà ô long
Trà Mao Phong
(毛峰)
Hoàng Sơn An Huy Trà xanh
Trà Ngân Châm
(银针)
Quân Sơn, Nhạc Dương Hồ Nam Trà vàng
Hồng trà
(祁门)
Kỳ Môn An Huy Trà đen
Nham trà
(岩茶)
Vũ Di Sơn Phúc Kiến Trà ô long
Trà Qua Phiến
(瓜片)
Lục An An Huy Trà xanh
Trà Mao Tiêm Đô Quân
(毛尖)
Đô Quân Quý Châu Trà xanh
Trà Mao Tiêm Tín Dương
(毛尖)
Tín Dương Hà Nam Trà xanh

 

Nguồn: wikipedia

Trà Long Tỉnh

Trà Long Tỉnh là một loại trà xanh nổi tiếng của Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Hầu như được chế biến bằng tay theo phương thức truyền thống và nổi tiếng vì có chất lượng rất cao. Trà Long Tỉnh được chia thành 7 hạng khác nhau: loại cao cấp, loại đặc biệt, và các loại từ 1 đến 5.

Giống như hầu hết các loại trà xanh khác, lá trà Long Tỉnh được sao khô để tránh quá trình lên men. “Quá trình lên men” ở đây được hiểu là quá trình những lá trà tươi sau khi hái dần mất đi mùi vị trà, kết quả của quá trình oxy hóa do các enzim. Sự oxy hóa này bị ngăn chặn bằng việc sấy và làm bay hơi nước trong lá trà trước khi nó hoàn toàn bị héo. Khi được ngâm vào nước, lá trà Long Tỉnh sinh ra màu vàng xanh lá cây, mùi thơm dịu, vị đậm, có chứa Vitamin C và Axít amin.

Trà Long Tỉnh nghĩa là trà “rồng nằm trong giếng”, được chế biến tại Hàng Châu. Nơi đây thiên nhiên rất đặc trưng, khí hậu mát mẻ, nguồn nước dồi dào, do đó trở thành một nơi rất thích hợp cho trà xanh sinh trưởng.

Trà Long Tỉnh được vua Khang Hy thời Mãn Thanh phong là Ngự trà, loại trà biểu trưng cho hoàng đế.

Cũng có tương truyền, vua Càn Long từng ghé thăm một vườn trà Long Tỉnh. Thoạt đầu khi thử trà, vua Càn Long chưa ấn tượng… nhưng rồi một lúc sau ngài cảm thấy hậu vị thanh ngọt ngấm trong cổ và rất thích. Cũng từ đó trà Long Tỉnh trở thành phẩm vật tiến cung… Tên của trà theo truyền thuyết cũng do vua Càn Long đặt, khi ông nhìn xuống một giếng nước gần đó và thấy bóng của cây trà lung linh dưới nước, giống hình 1 con rồng đang bay lượn trong giếng, nên Càn Long đặt tên là Long Tỉnh Trà.

Ngày nay, trà Long Tỉnh trở thành một thứ trà rất thời thượng của dân uống trà. Nó cũng vẫn thường được coi là quốc trà của Trung Quốc và là loại đồ uống yêu thích của các nhà lãnh đạo Trung Quốc; đồng thời cũng thường xuyên được dùng để mời các vị khách quý cấp nhà nước.

Trung bình mỗi hộp trà Long Tỉnh có khoảng 25.000 đọt lá. Người ta thường phải hái trà vào buổi sáng. Công việc sấy trà cũng rất khác biệt, người làm công việc này không dùng bất kỳ một dụng cụ nào ngoài hai bàn tay của họ.

Trà Long Tỉnh nước xanh mát, thoang thoảng hương thơm… Trà Long Tỉnh thường được đựng trong hộp sang trọng để dùng làm quà tặng cao cấp cho giới thượng lưu ở Châu á.

trà long tĩnh

Trà Long Tỉnh

Tây Hồ Long Tỉnh
Là loại tiêu chuẩn theo quy ước tên gọi, bởi Tây Hồ là nơi loại trà đặc thù này phát triển. Loại trà Long Tỉnh này được xếp vào một trong những loại trà nổi tiếng Trung Quốc, sinh sôi và phát triển trong một vùng xác định rộng khoảng 168 km² ở tỉnh Chiết Giang gần Tây Hồ. Trong lịch sử, Long Tỉnh Tây Hồ được chia làm 4 loại cho 4 vùng nhỏ hơn là : Sư (Sư Tử), Long (Rồng), Vân (Mây), và Hổ. Nhưng theo thời gian, sự phân biệt này dần bị quên lãng, cho đến hiện nay được sửa lại thành các loại trà Tứ Phương Long Tỉnh, Mai Gia Long Tỉnh và tên gọi chung là Tây Hồ Long Tỉnh. Mặc dù một số người sành sỏi vẫn hay gọi loại trà Sư Tử là “crème de la crème”.
Long Tỉnh trước Thanh Minh
Loại trà được uống vào những tháng đầu tiên trong năm trước tiết thanh minh. Được làm từ những ngọn trà rất non hái trước tiết Thanh minh, ngày 5 tháng 4 hàng năm. Chu trình chế biến diễn ra rất ngắn, chỉ trước Thanh minh hàng năm 10 ngày. Trà được hái trước thời điểm này là loại trà thuộc cấp thấp tên là Vũ Tiền Long Tỉnh – Long Tỉnh trước mưa. Trong 10 ngày ngắn ngủi, những nhánh trà non trên đỉnh cây trà sẽ chỉ được hái bởi những người hái có kinh nghiệm, sau đó được chế biến rất đặc biệt; do đó, Long Tinh trước Thanh Minh luôn đắt hơn những loại trà Long Tỉnh thông thường.
Tứ Phương Long Tỉnh
Một loại trong nhóm Tây Hồ Long Tỉnh. Loại trà này được đánh giá là loại trà có chất lượng cao nhất Trung Quốc; có vị tươi, hương thơm nồng và lưu lại rất lâu, có sắc xanh hơi vàng. Một số người làm trà không đứng đắn đã làm giả màu trà này để bán trà với giá cao.
Mai Gia Ô Long Tỉnh
Một loại trong nhóm Tây Hồ Long Tỉnh. Loại trà này nổi tiếng với màu xanh ngọc bích rất hấp dẫn. Vào khoảng năm 2005 có thể được bán với giá 6000 Nhân dân tệ 1 kg trực tiếp từ người trồng.
Bạch Long Tỉnh
Không phải là một loại trà Long Tỉnh thật sự nhưng có những nét giống đặc tính thông thường của Long Tỉnh. Loại trà này có xuất xứ từ An Cát, thuộc tỉnh Chiết Giang. Được chế biến từ những năm 80 thế kỷ trước từ một loại cây trà trắng và do đó rất khác thường, nhiều người nói răng nó chứa hàm lượng Axít amin cao hơn các loại trà xanh thông thường.
Tiền Đường Long Tỉnh
Loại trà này sinh trưởng ngày ngoài vùng loại trà Tây Hồ Long Tỉnh sinh sống, tại Tiền Đường. Loại trà này không cao cấp bằng loại trà Tây Hồ.
Ngự phẩm Long Tỉnh: Trà Long tỉnh với hẩm trà tốt nhất được tuyển chọn chuyên để tiến Vua

Trà Long Tỉnh: Tiếng Hán giản thể: 龙井茶; phồn thể: 龍井茶

Sưu tầm

Trà Thiết Quan Âm

Trà Thiết Quan Âm là một cực phẩm của trà Ô Long (thuộc nhóm trà Ô Long). Phẩm chất đặc trưng của trà là sợi trà cong xoắn, kết tròn đầy đặn, nặng chắc đều nhau, màu xanh lục trạch sa, hình thể tựa như cái đầu con chuồn chuồn, như loa ốc. Sau khi pha, trà màu vàng tươi đậm, đẹp tựa hổ phách, có mùi thơm tự nhiên ngào ngạt của hoa lan, vị trà đậm đà dịu ngọt lâu tan, tục xưng là có “âm vận”. Trà Thiết Quan Âm vừa ngon vừa lâu, có thể nói “bảy nước còn dư hương”.

trà thiết quan âm

Trà Thiết Quan Âm vốn được sản xuất ở trấn Tây Bình huyện An Khê có hơn 200 năm lịch sử.

Nguồn gốc của trà Thiết Quan Âm

Ở An Khê còn lưu truyền một câu chuyện: Tương truyền vào đời Thanh năm vua Càn Long, trên vườn trà ở trấn Tây Bình, huyện An Khê, Ngụy Ẩm chế được một loại trà ngon, mỗi ngày sáng tối ông đều pha 3 chum trà cúng dường lên Bồ Tát Quan Âm. Cứ như vậy suốt mười năm trời không hề gián đoạn, đủ thấy lòng thành tin Phật của ông.

Một đêm, Ngụy Ẩm mộng thấy ở trên vách núi có một cây trà tỏa ra mùi thơm của hoa lan, đang lúc định hái, bị tiếng chó sủa ở đâu làm tỉnh mất cơn mộng. Sang ngày hôm sau, quả nhiên ở trên chởm đá ông tìm thấy một cây trà giống hệt cây trà trong mộng. Do đó Ngụy Ẩm hái một ít lá non mang về nhà chuyên tâm chế biến. Sau khi chế xong, vị trà dịu ngọt thơm ngon, làm tinh thần nhẹ nhàng. Ngụy Ẩm cho rằng đây là vua trong các loại trà, liền bứng cả cây trà mang về nhà làm giống để trồng.

Vài năm sau, trà mọc nhiều và tươi tốt, cành lá xum xuê. Do vì lá trà đẹp như Ngài Quan Âm, nặng như sắt, mà lại do Ngài Quan Âm gia hộ báo mộng cho nên ông gọi trà là Thiết Quan Âm.

Từ đó Thiết Quan Âm nổi danh thiên hạ, là một trong “Thập đại danh trà” của Trung Hoa.

Cây trà Thiết Quan Âm bẩm sinh vốn yếu mềm nên người trồng trà phải chăm sóc kỹ. Cuối tháng ba hàng năm cây trà đâm chồi, đầu tháng năm bắt đầu thu hái. Cây trà Thiết Quan Âm ra búp quanh năm, nhưng sản lượng vào mùa xuân là nhiều nhất, hương trà vào mùa thu là thơm đượm nhất.

Phân loại trà Thiết Quan Âm

Trà Thiết Quan Âm hiện tại được chia thành 3 dòng dựa theo hương vị như sau: Thanh Hương, Nùng Hương và Trần Hương:

  • Thiết Quan Âm Nùng Hương: Đây là loại Thiết Quan Âm được gia nhiệt ở mức độ cao. Dòng Thiết Quan Âm này cho màu nước sắc xanh, ánh vàng. Vị trà có đắng hơn so với Thanh Hương.
  • Thiết Quan Âm Thanh Hương: Dòng trà này được gia nhiệt thấp hơn dòng Nùng Hương, chú trọng vào mùi hương của trà, nước trà sau khi pha có màu xanh ngọc bích. Mùi hương là điều đặc biệt nhất, tùy theo cấp độ mà mùi hương có thể giữ được trong 5-7 nước hay 8-10 nước
  • Thiết Quan Âm Trần Hương: Đây là phiên bản sao hoàn toàn của Thiết Quan Âm, dòng này có phong cách cổ điển, mùi hương nồng, ấm áp hơn và đặc trưng của viên trà có màu nâu sẫm.

Nguồn: Tổng hợp

Cửu đạo trà

Đến thời nhà Đường, Lục Vũ đã tổng kết 9 cách pha trà, uống trà (cửu đạo trà), bao gồm 9 chữ: phẩm, ôn, đầu, trúng, mân, phục, chân, kính, ẩm.

  1. Phẩm: đánh giá phẩm chất trà bằng ngoại hình trà khô.
  2. Ôn: dùng nước sôi rửa sạch sẽ ấm chén pha trà, để tăng nhiệt độ nhằm chiết xuất tối đa các thành phần hữu hiệu của trà.
  3. Đầu: bốc một lượng trà thích đáng vào trong ấm, không quá nhiều hay quá ít, căn cứ vào loại trà và sở thích của khách uống trà.
  4. Trúng: pha nước sôi ít một, không đổ đầy ngay cả ấm một lần.
  5. Mân: hãm nước sôi đậy nắp kín, 1 đến 2 phút để cho cánh trà nở ra.
  6. Phục: lại tiếp tục pha nước sôi đầy ấm, để chiết xuất tối đa các thành phần hữu hiệu.
  7. Chân: rót nước trà trong ấm pha vào chén uống trà.
  8. Kính: dâng chén trà một cách kính cẩn mời khách uống.
  9. Ẩm: vừa uống vừa thưởng thức hương vị, vừa khen thơm ngon.

cửu đạo trà

Chuyện tình của Thần Trà

Khi mới tìm thấy Lục Vũ, hòa thượng Tích Công gửi Lục Vũ ở nhà Lý Nho là một Nho sĩ. Nhà họ Lý này cũng có một con gái nhỏ trạc tuổi Lục Vũ, tên là Lý Quý Lan. Hai người cùng lớn lên bên nhau thân thiết như anh em ruột thịt. Lý Nho dạy dỗ hai người học kinh thư, viết văn, làm thơ. Khi Lục Vũ 6 tuổi thì Lý Nho phụng mệnh đến Giang Nam làm quan, vì vậy Lục Vũ phải từ biệt gia đình họ lý.

Chuyện tình của Thần Trà

Trong một lần dự Hội thư. Các văn sĩ thích thơ văn đều tập trung đến đó, tình cờ Lục Vũ gặp lại Lý Quý Lan (người bạn thời thơ ấu). Họ cùng uống rượu, ngâm thơ, nói chuyện. Hai người rất tâm đầu ý hợp, tình cảm sâu nặng. Nào ngờ, cuối năm Đường Đại Lịch, triều đình hạ chiếu triệu Quý Lan vào cung để ngâm thơ, ca hát cho Đường Đại Tông nghe. Sau khi Đại Tông chết, Đức Tông lên ngôi. Quý Lan nhiều lần muốn xin quay về, song đều không được phê chuẩn.

chuyện tình của thần trà

Năm 783, xảy ra binh biến Kinh Nguyên. Đức Tông và triều đình bỏ chạy về phía Tây. Những người bị bắt (trong đó có Quý Lan) oán hận Đức Tông. Lý Quý Lan đã viết những dòng thơ tỏ ý bất mãn với Đức Tông, nào ngờ năm sau Đức Tông trở về kinh thành, có người đem chuyện đó cáo giác làm nhà vua nổi giận, hạ lệnh giết Quý Lan. Lục Vũ vô cùng đau đớn, ông thề rằng không bao giờ lấy vợ, ở vậy thờ Quý Lan.

Cũng thời gian đó, hoàng đế nhiều lần mời Lục Vũ vào kinh thành làm quan, nhưng ông không ưa danh lợi, đều một mực từ chối. Từ đó về sau ông càng dành tâm huyết để viết tác phẩmTrà Kinh.

Nguồn: sưu tầm

Trà Phổ Nhĩ

Trà Phổ Nhĩ là một loại trà rất đặc biệt trong các loại trà xét trên phương diện phương pháp chế biến công phu, đặc tính và nguồn nguyên liệu của trà.

Phổ Nhĩ là tên gọi một địa danh tại tỉnh Vân Nam Trung Quốc, ở đây có một loại trà rất đặc biệt, nổi tiếng được sản xuất bằng phương pháp lên men, vì vậy, người ta gọi loại trà được sản xuất theo phương pháp lên men này là trà Phổ Nhĩ.

Trà Phổ Nhĩ vốn có xuất xứ lâu đời từ Phổ Nhĩ, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, loại trà này đặc biệt hơn các loại trà khác ở chỗ là được sản xuất từ giống chè cổ thụ to lớn. Ở vùng Phổ Nhĩ, giống chè cổ thụ nằm trên độ cao hơn 1300 m. Ngày nay, trà Phỗ Nhĩ là tên gọi của loại Trà được chế biến từ giống chè cổ thụ theo phương pháp lâu đời của vùng Phỗ Nhĩ. Ở Việt Nam, giống chè này mọc ở trên những vùng núi cao trên 1000 m.phía bắc như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La.

Điểm quan trọng để tạo nên sự khác biệt của trà Phổ Nhĩ ngoài nguyên liệu lá chè cổ thụ vùng núi cao là phương pháp chế biến. Trà Phổ Nhĩ được diệt men và vò xong thì lại được làm khô bằng cách phơi nắng. Do được làm khô chậm bằng cách phơi nắng nên trà lại tiếp tục lên men một phần nhỏ khi phơi.

Có hai loại trà Phổ Nhĩ:

Trà Phổ Nhĩ sống: Sau khi làm khô, lá trà nếu được đóng bánh ngay thì gọi là Phổ Nhĩ sống. Phổ Nhĩ sống có quá trình lên men được diễn ra một cách tự nhiên theo năm tháng. Để càng lâu thì hương vị càng thơm ngon, màu càng đẹp.

Trà Phổ Nhĩ chín: Sau khi làm khô, lá trà được ủ ( để ép lên men nhanh) trong khoảng 30 đến 50 ngày thì gọi là trà Phổ Nhĩ chín.

Trà Phổ Nhĩ được trải qua quá trình lên men vi sinh vật hoàn toàn, vì vậy nó được gọi là trà lên men hoàn toàn. Có thể nói rằng: Phổ Nhĩ sống sau nhiều năm sẽ ‘chín’ thành Phổ Nhĩ lâu năm, còn Phổ Nhĩ chín là Phổ Nhĩ sống bị ép ‘chín’ nhanh trong vài 30 – 45 thay vì đợi nhiều năm.

trà phổ nhĩ

Trà Phổ Nhĩ thường được nén lại đóng thành bánh hoặc viên, phổ biến là hình bánh tròn. Loiaj trà bánh này không có hạn sử dụng, để bao lâu cũng được. Bánh trà thành phẩm hơn năm năm là lúc thời điểm thích hợp nhất để uống. Nếu chất lượng của trà vẫn chưa được như ý, thì người dùng có thể để thêm vài năm nữa, sau đó có thể uống.

Khi pha trà Phổ Nhĩ phải sử dụng nước có nhiệt độ cao, tầm > 95 độ để làm trà nở bung ra, hương và vị của trà được phát huy. Nếu dùng nước có nhiệt độ thấp sẽ làm cho nước trà nhạt, thiếu hương vị. Nước trà có màu nước nâu đỏ, hoặc vàng đỏ sóng sánh rất đẹp, mùi nồng thoang thoảng rất đặc trưng, vị chát dịu, hậu ngọt.

Ở Việt Nam, tại Hà Giang, những rừng trà Shan Tuyết hoang dã trên núi cao là nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất ra trà có chất lượng tương đương trà Phổ Nhĩ của Trung Quốc. Nhiều nhà sản xuất trà Trung Quốc đã sang Việt Nam tìm mua trà Shan Tuyết Lào Cai, Sơn La, Hà Giang để sản xuất trà Phổ Nhĩ.

Trà Phỗ Nhĩ được chế biến từ lá chè Shan Tuyết cổ thụ vùng Tây Bắc Việt Nam

Hiện tại, Việt Nam cũng đã có trà bánh được sản xuất từ nguồn trà Shan Tuyết cổ thụ vùng núi cao Tây Bắc, có phương pháp chế biến công phu của trà Phỗ Nhĩ và chất lượng tương tự như trà Phổ Nhĩ của Trung Quốc.

Giá trị và công dụng:

Các công trình nghiên cứu giá trị dinh dưỡng và giá trị y học của trà Phổ Nhĩ tại Trung Quốc, Nhật Bản và Châu Âu đã phát hiện ra rất nhiều tính chất kỳ diệu:

  1. Thường xuyên uống trà Phổ Nhĩ sẽ giúp làm giảm mỡ máu, giảm đường trong máu
  2. Có tác dụng hạ huyết áp;
  3. Làm giảm các hợp chất béo và isolipit, giảm cholesteroltrong cơ thể.
  4. Tác dụng chữa bệnh sơ cứng mạch vành tim; ngăn được sơ cứng mạch máu
  5. Trà Phổ Nhĩ có tác dụng làm giảm triphosphoglyxein và axit béo tự do. Ức chế hình thành cholesterol, tăng bài tiết cholesterol.
  6. Có tác dụng ức chế rất rõ rệt với vi khuẩn, nấm và nấm men;
  7. Ức chế rất mạnh sự phát triển tế bào ung thư. Có thể tăng sự sản sinh tế bào miễn dịch trong cơ thể;
  8. Có tác dụng giảm béo
  9. Có khả năng loại bỏ gốc tự do
  10. Có tác dụng nhất định đến việc phòng nhiễm xạ
  11. Làm giảm độc tố của thuốc lá….

Nguồn: Tổng hợp

Trà Kinh

“ Trà kinh ” là cuốn sách Bách khoa toàn thư về chè lâu đời nhất từ đời Nhà Đường và có ảnh hưởng sâu xa, rộng lớn đến các đời sau này.

Năm 760, Lục Vũ quen sống cuộc đời ẩn dật của một nhà văn hoá ở Thiệu khê, Hồ châu, tỉnh Chiết giang và đã biên soạn cuốn “ Trà kinh ”, đến nay là cuốn chuyên khảo đầu tiên về chè trên thế giới. Cuốn sách chia thành 10 chương:

  1. Nhất chi nguyên: nói về nguồn gốc cây chè, ảnh hưởng của các điều kiện thiên nhiên đến chất lượng chè, công dụng của chè đối với sinh lý con người.
  2. Nhị chi cụ: nói về 15 công cụ trồng chè, hái chè, chế biến chè.
  3. Tam chi tạo: nói tiêu chuẩn phẩm cấp búp chè đối với các loại trà thành phẩm khác nhau, yêu cầu của chế biến trà.
  4. Tứ chi khí: giới thiệu 25 dụng cụ pha (nấu) chè, uống chè.
  5. Ngũ chi chủ: bàn về pha (nấu) trà, nêu lên các tiêu chuẩn phẩm chất trà.
  6. Lục chi ẩm: nói về uống trà, phưong pháp pha trà, gồm 9 thao tác trong ẩm trà hay còn gọi là Cửu đạo trà.
  7. Thất chi sử: ghi chép các danh nhân yêu thích chè và các trà thoại về trà, lịch sử cây chè, đồng thời còn giới thiệu về công dụng chữa bệnh của chè.
  8. Bát chi xuất: nói về các vùng chè, phân bố các vùng chè Đời Nhà Đường, bình luận về chất lượng trà của các vùng.
  9. Cửu chi lược: nói về khả năng đơn giản hoá một số khâu trong chế biến trà, phân loại trà trong một số điều kiện đặc thù: tại các chùa ở những vùng sâu xa, trên núi cao.
  10. Thập chi đồ: nói về các tranh ảnh vẽ về trà treo lên tường hay bầy biện trong nhà, để khỏi bị lãng quên.

trà kinh

Hiện nay, tại quê hương Lục Vũ, có xây dựng một nhà bảo tàng kỷ niệm Lục Vũ, để ghi nhớ đến người đã có cống hiến lớn cho văn hoá và lịch sử chè Trung Quốc. Ngoài ra còn dựng một tượng đồng Lục Vũ đang ngồi uống một chén chè tại quê hương Thiên Môn của ông.

Cách pha trà kiểu trà công phu

Pha trà, uống trà là một nghệ thuật. Có hai phương pháp pha trà, uống trà đã được nâng lên tầm “đạo” là Trà đạo Nhật Bản và Trà đạo Trung Quốc (còn thể gọi là trà công phu, trà nghệ Trung Quốc). Trà đạo Nhật bản thiên về nghi thức, còn trà nghệ Trung Quốc thiên về chật lượng trà và ấm.

Phạm vi bài viết này nói về phương pháp pha trà và cách uống trà của Trung Quốc ở mức thông dụng.

  1. TRÀ CỤ:

Trà cụ là một phần quan trọng để tạo nên văn hóa trà Trung Quốc. Thông thường người uống trà sẽ có những trà cụ để uống trà cơ bản sau:

  • Ấm tử sa – lựa chọn hàng đầu (bao gồm ấm độc ẩm, ấm song ẩm, ấm quần ẩm dành cho nhều người), ấm gốm sứ.
  • Chén uống trà (có thể là chén bằng đất tử sa, bằng gốm tráng men, chén sứ, ngọc, bạc, thủy tinh …) và đế lót chén.
  • Chuyên trà hay trà hải: là chén lớn bằng tử sa, gốm, sứ, hoặc thủy tinh có dung tích gần ngang hoặc lớn hơn ấm trà nhỏ, có miệng rót và có thể có hoặc không có quai, không có nắp, dùng để đựng nước trà đã pha từ ấm trước khi rót vào các chén nhỏ để uống. Có thể có lưới lọc trà dùng kèm. Ở Việt nam cũng có từ xưa và gọi là chén tống.
  • Khay trà (khay gỗ hoặc khay gốm). Những bàn trà lớn thường dùng khay gỗ lớn có lỗ thoát nước được gắn liền với ống nhựa chảy xuống một bình đựng nước thải ra, vì lượng nước được sử dụng bao gồm rửa chén, tráng ấm, pha trà … khi uống trà kiểu Trung Quốc là rất nhiều.
  • Dụng cụ đun nước sôi (ấm điện, ấm đun bếp hồng ngoại, bếp từ, bếp than, …)
  • Dụng cụ khác: Thuyền trà (dùng để lót ấm), muỗng múc trà, chổi rửa ấm chén, bát ngâm chén trà, cóng đong trà, kẹp chén trà, khêu trà, khăn lau ấm, dao cắt trà (dùng cho trà phổ nhĩ).
  • Đồ chơi bàn trà: Cóc thiềm thừ tử sa, tượng, các vật trang trí, đế gác ấm trà …(tùy theo sở thích)

2. TRÀ

Tùy theo sở thích mà người dùng có thể mua các loại trà phù hợp với phong cách uống trà Tàu như Long Tĩnh, Ô Long, Thiết Quan Âm… Xem thêm về chuyên mục “Các loại trà, và bài viết “Thập đại danh trà Trung Quốc

Trà Ô Long hiện còn được sản xuất tại Việt nam, cây trà trồng để sản xuất trà Ô Long ở Việt nam phần lớn thuộc giống trà Ô Long Cao sơn Đài Loan. (Cảm nhận của người viết khi uống Trà Ô Long sản xuất tại Việt nam thuộc giống trà Ô Long Cao Sơn Đài Loan là ngon).

Như đã nói trong bài “Khai ấm tử sa“, bạn nên dùng mỗi loại trà một ấm riêng nếu bạn thích uống nhiều loại trà khác nhau. Trà mua về nên để vào các loại hộp đựng trà có nắp đóng kín (hộp gỗ, gốm, …).

3. CÁCH PHA TRÀ

Cách pha trà cầu kỳ, nguyên tắc và cách thưởng thức trà đạo không những cho nước trà được pha ngon hơn mà còn là một nghệ thuật, thú vui thanh nhã. Nếu bạn thấy nó rườm rà thì có thể bạn chưa thực sự tìm thấy thú vui trong trà đạo.

Về nước để pha trà, thời nay bạn nên dùng nước đã qua lọc để đun sôi khi pha. Nước ở giếng vùng quê có thể có nhiều tạp chất và nước máy có nhiều chất khử trùng. Các tiền bối hàng trăm năm trước có thể dùng nước mưa để lắng hay nước suối trong sach để pha, nhưng thời nay nước mưa thường lẫn bụi, tạp chất công nghiệp và nước sông suối không còn trong sạch nữa.

Nên dùng các loại ấm dáng tròn nhỏ khi pha Lục trà hoặc Ô long (gần như là một nguyên tắc), dùng ấm lớn cao cho Hồng trà, phổ nhĩ, trà đen. Dùng ấm độc ẩm, ấm song ẩm hay quần ẩm là tùy số lượng người uống.

Trình tự các bước pha trà như sau:

  1. Trước tiên, dùng nước sôi tráng ấm, chén, tưới nước sôi lên vỏ ngoài của ấm trà.

2. Cho trà vào khoảng nửa ấm hoặc theo lượng mà bạn muốn nhưng không đầy ấm, nên dùng dụng cụ múc trà để đong và múc.

3. Đổ nước sôi vào ấm cho đến khi nước tràn ra ngoài và đậy nắp lại.

Trong vòng khoảng 15 giây, đổ hết nước ra chén tống, sau đó từ chén tống đổ ra các chén nhỏ để tráng lại bằng nước trà thơm. Nếu bạn có “nuôi” cóc Thiềm thừ tử sa, tưới nước trà đầu tiên này (còn gọi là rửa trà, làm cho lá trà mở ra) lên lưng Thiềm thừ. Cóc Thiềm thừ tử sa được nuôi lâu sẽ ngấm trà, mắt và các hạt sao bắc đẩu trên lưng (nếu có) sẽ sáng đẹp).

4. .Tiếp tục đổ đầy nước sôi vào ấm và đậy nắp lại. Tưới nước sôi lên nắm ấm. Đợi chừng 45 giây đến 1 phút cho trà ngấm, sau đó rót hết nước trà vào chuyên trà (có thể đặt lưới lọc trà lên chuyên trà), sau đó rót từ chuyên trà ra các chén nhỏ để uống.

Tại sao không nên ngâm hãm trà lâu?

Ngâm hãm quá lâu làm cho chè tiết ra polyphenyles và các loại dầu quan trọng, tạo ra quá trình ôxy hóa tự nhiên. Điều này không chỉ làm giảm độ trong của trà mà còn làm giảm hàm lượng dưỡng chất có trong trà. Ngâm hãm lâu sẽ làm trà quá đặc, hàm lượng caffein và tannin tan vào nước lớn không tốt cho sức khỏe.

Nếu bàn trà không có chuyên trà? Không có chuyên trà là một thiếu sót lớn trên bàn trà đạo, nhưng nếu không có chuyên trà, người pha trà nên thực hiện phương pháp sau:

  • “Hàn tín điểm quân”: Rót lần lượt vào từng chén nhỏ lần lượt mỗi chén một chút trà rồi quay lại vòng khác cho đến khi đầy chén.
  • “Quan công tuần hành”: Đặt các chén nhỏ sát cạnh nhau thành hàng thẳng rồi rót trà từ ấm ra các chén sao cho lướt thật nhanh dòng nước qua các chén trà mà không ngắt dòng chảy. Rót lướt lui tới vài lần cho đến khi các chén nhỏ đầy trà thì thôi.

5. Các loại trà được pha theo phương pháp này có thể uống thêm 2 – 3 nước, các lần sau mỗi lần ngâm trà lâu hơn lần trước 15 – 20 giây để trà được ngấm đậm hơn.

Với trà Phổ nhĩ, tời gian để ngâm trà trong ấm là từ 2 – 3 phút.

Ảnh đại diện: sohu.com

Lịch sử của trà

Xét về khía cạnh lịch sử, sinh học, địa lý, các chuyên gia đều thống nhất trà có nguồn gốc từ khu vực châu Á, chủ yếu là ở Tây Nam Trung Quốc và Bắc. Thời gian con người sử dụng trà chính xác từ bao giờ thì không ai biết, tuy nhiên được ước chừng là dưới triều nhà Thương (1600 TCN – 1046 TCN).

Theo những tài liệu cổ của Trung Quốc, trà là do Thần Nông – một trong Tam Hoàng của văn hóa Trung Hoa tìm ra. Truyền thuyết kể rằng, Thần Nông là người dạy nhân dân làm ruộng và rất giỏi y thuật. Ông đi tới đâu cũng tìm kiếm, thử nếm các loại cây cỏ trong tự nhiên để phân biệt đâu là thuốc chữa bệnh, đâu là thuốc độc. Năm 2737 TCN, Thần Nông lần đầu tiên nếm thử lá trà cháy bị gió nóng thổi tới và rơi vào vạc nước sôi của ông. Cũng từ đó, ông phát hiện ra tác dụng y học của trà và coi nó là một loại thuốc rất tốt, có thể giải độc của 70 loại cây cỏ khác.

Do sự ảnh hưởng của truyền thuyết này, người Trung Hoa xưa ban đầu chỉ dùng trà phục vụ mục đích chữa bệnh mà thôi. Xuyên suốt các triều đại nhà Tây Chu (1122 TCN – 249 TCN), nhà Tần (221 TCN – 206 TCN), nhà Hán (202 TCN – 220), trà chỉ được dùng cho tầng lớp hoàng gia, quý tộc và luôn được coi là một biểu tượng tôn giáo truyền thống.

Tới thời nhà Đường (618 – 907), trà trở nên phổ biến và tất cả các tầng lớp người Trung Hoa sử dụng. Khi đó, các nhà sư thuộc phái Thiền tông Nhật Bản sang Trung Quốc tu đạo đã mang trà về quê hương của họ. Cũng từ đó, trà phát triển rất mạnh ở xứ sở hoa anh đào, tới mức hình thành nên nghệ thuật trà đạo vang danh cả thế giới.

Ở một nhánh khác, trà Trung Hoa mà chủ yếu có nguồn gốc ở Vân Nam cũng được triều đình phong kiến cho phép buôn bán với người dân ở Tây Tạng. Từ thời nhà Tống (960 – 1279), trà được vận chuyển sang Tây Tạng – nơi các thiền sư có nhu cầu về trà rất lớn qua con đường “Trà – Mã cổ đạo” dài hơn 4.000km.

Thế kỷ XVI đánh dấu bước ngoặt trên con đường vươn ra thế giới của trà. Những nhà du hành châu Âu từ Trung Quốc trở về đã đem theo cây trà cây hoa nhài và cẩm quỳ về, Bồ Đào Nha để trồng thử.

Ngay lập tức, trà ướp nhài thơm đã trở thành thức uống yêu thích của tầng lớp quý tộc nơi đây. Tới năm 1660, công chúa Catherine de Braganza trở thành hoàng hậu nước Anh khi kết hôn với vua Charles II. Cũng từ đó, trà phổ biến trong giới hoàng gia Anh và những tiệc trà chiều là một phần không thể thiếu trong đời sống vương giả.

Hai thế kỷ sau, trà trở nên cực kì phổ biến ở mọi nơi theo sự phát triển của đế quốc Anh. Trà theo chân các thương nhân người Anh tới các thuộc địa cũ của nước này như: Mỹ, Ấn Độ…

Ngày nay, trà là thức uống phổ biến và có ảnh hưởng lớn nhất trên toàn thế giới.

Nguồn tham khảo: Wikipedia

Các loại đất chính làm ấm tử sa

Nghi Hưng thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc là nơi có một loại đất sét rất đặc biệt và nổi tiếng gọi là đất Tử sa và là nơi tạo ra những chiếc ấm tử sa nổi tiếng. Đất Tử sa là loại đất sét đá (Stone Clay) – loại đất đặc biệt chỉ ở vùng Nghi Hưng mới có. Các loại đất chính làm ấm tử sa:
Tử sa là từ để mô tả loại đất sét có sắc độ tím, và ngoài ra ở Nghi Hưng còn rất nhiều loại đất có sắc độ khác nhau như: đỏ, xanh lục, vàng, v.v… Tuy nhiên trên thực tế Tử sa đã trở thành một thuật ngữ chung để chỉ các loại đất sét có xuất xứ từ Nghi Hưng.
Đất sét Nghi Hưng (Stone Clay) là loại đất có cấu trúc và thành phần cấu tạo gồm oxit sắt, silic, mica, kaolinite cùng nhiều khoáng chất khác trong đó oxit sắt là thành phần chủ yếu. Chính nhờ thành phần cấu tạo đặc biệt này mà những chiếc ấm trà từ Nghi Hưng luôn có những ưu điểm rất tuyệt vời như: chịu được nhiệt rất cao trên1000C, giữ được trọn vẹn hương vị của trà, dù trà để rất lâu trong ấm sau khi đã sử dụng xong nhưng vẫn ko bị mốc hoặc thiu, v.v…

Vùng Nghi Hưng cũng còn có loại đất sét thường (Earth Clay), là loại đất được sử dụng một cách phổ biến để tạo ra các sản phẩm gốm thông dụng trong đó có ấm trà thường (không phải ấm tử sa)

Về cơ bản chất lượng đất sét sử dụng để làm ấm được chia thành 3 nhóm như sau:
Đất sét nguyên khoáng (Original, Natural): đây là loại đất tự nhiên được khai thác trực tiếp từ các mỏ núi đá ở Nghi Hưng và là loại đất có chất lượng tốt nhất để làm ấm. Nhưng do khai thác quá nhiều nên hiện nay số lượng đất nguyên khoáng còn lại không nhiều và ngày càng trở nên khan hiếm
Đất phối (Mixed): đây là loại đất được tạo ra bằng cách phối đất nguyên khoáng với nhau, hoặc phối đất nguyên khoáng với một vài nguyên liệu tự nhiên khác (nguyên liệu tự nhiên chủ yếu được sử dụng để phối là cát vì nó có tính chất và thành phần cấu tạo tương đương). Đất phối được tạo ra với mục đích chính là tận dụng đất nguyên khoáng vì như trên đã nói đất nguyên khoáng ngày càng hiếm
Đất nhân tạo (Artificial): đây là loại đất được tạo ra bằng cách phối thêm một số thành phần hoá học khác vào đất (có thể là đất sét hoặc đất bùn) để tạo ra một chất liệu mới, hiện nay loại đất này được sử dụng rất nhiều để tạo ra những chiếc ấm mới với màu sắc đa dạng và bắt mắt nhưng chất lượng đất thì không thể tốt được bằng đất nguyên khoáng.

Đất sét nguyên khoáng bao gồm 5 loại cơ bản sau: 

1. Đất tử sa

Đất tử sa (Zi ni) là loại đất được sử dụng phổ biến nhất, nhiệt độ chịu nung của nó khoảng 1180°C và độ co ngót so với ban đầu khoảng 10% – 11%. Về màu sắc nhiều tài liệu mô tả đất tử sa có màu tím gọi là cát tím (purple sand) nhưng thực tế đất tử sa có màu nâu tím (purple-brownish) hoặc màu nâu (brown) nhiều hơn.

Đất tử sa có 7 loại nguyên khoáng thông dụng để chế tạo ấm tử sa, bao gồm:

Nguyên Khoáng Để Tào Thanh

Loại đất này được khai thác ở khu vực dãy núi Hoàng Long Sơn thuộc Nghi Hưng, Trung Quốc. Đặc điểm chính của loại khoáng này có chứa màu xanh biếc của mắt chim, mắt mèo, có pha lẫn chút tím và ánh xanh, mịn màng mà tinh khiết. Khi nung loại đất này lên nó chuyển thành màu đỏ gan lợn rất đẹp mắt. Khi pha trà trong ấm tử sa làm từ Nguyên Khoáng Để Tào Thanh tạo cho chúng ta cảm giác rất du dương trầm bổng. Sau một thời gian sử dụng, ấm tử sa sẽ chuyển thành màu đậm hơn.

Nguyên Khoáng Tử Nê

Tử Nê là loại đất làm ấm tử sa điển hình thường gặp và là loại đất dễ kiếm nhất trên thị trường. Loại đất này được khai thác ở núi Hoàng Long Sơn, Giang Tô, Nghi Hưng, Trung Quốc. Do hàm lượng sắt trong loại đất Tử Nê này rất cao nên nó sẽ tạo ra các lỗ khí trên thân sản phẩm. Đất có tính ổn định cao, dễ chế tạo, độ bền cao, màu sắc ổn định, nhìn rất sang trọng. Đặc biệt loại ấm tử sa làm từ Tử Nê lại có giá thành phẩm tương đối rẻ, dùng càng lâu cho màu sắc càng đẹp lôi cuốn người dùng.

Nguyên Khoáng Thanh Thủy Nê

Loại đất này có đặc điểm khô ẩm, dễ tạo tác, có tính ổn định cao, độ kết dính vừa phải. Chúng được khai thác tại núi Hoàng Long Sơn, Giang Tô, Nghi Hưng, Trung Quốc. Khi làm ấm phải luyện lại đất, loại bỏ đá vôi trong đó bởi chúng dễ chuyển thành màu đen. Sử dụng lâu ngày ấm chuyển sang màu đỏ hồng đẹp mắt.

Ngọc Sa Liệu

Nguyên khoáng Ngọc Sa Liệu là một trong nhữn loại đất làm ấm tử sa có tính thoát khí mạnh, nên khi rót nước lên thân ấm thì nước sẽ bốc hơi rất nhah, ấm khô ngay lập tức. Đất được khai thác tại vùng Nghi Hưng, Trung Quốc. Khi dùng ấm trong khoảng thời gian dài sẽ dẫn đến độ bám cao trà, dễ khiến cho các lỗ thoát khí bị tắc, vì vậy chúng ta cần phải nung lại ấm trong lò có nhiệt độ cao lúc này chiếc ấm sẽ trở lại như mới.

Ngũ Sắc Thổ

Đất Ngũ Sắc Thổ được khai thác tại vùng núi Hoàng Long Sơn, Giang Tô, Trung Quốc. Đất có độ mịn nằm trong khoảng giữa từ 8 đến mục 16, đây là loại nguyên liệu thô, đặc tính dễ vỡ và dễ bị oxy hóa nên quá trình tinh luyện phải làm thủ công.

Tử Kim Sa

Tử Kim Sa là loại đất làm ấm tử sa quý hiếm, có tính ổn định cao, dễ làm, chúng thuộc loại quặng cộng sinh, nằm ở tầng giữa của Tử Nê. Do đặc tính tương đối xốp nên ấm tử sa được làm từ Tử Kim Sa thường có độ đối lưu không khí hai chiều rất tốt. Càng sử dụng lâu chiếc ấm càng lộ ra những nét đẹp tinh tế làm lôi cuốn lòng người.

Ngọc Kim Sa

Tử Ngọc Kim Sa là loại quặng tương đối thô, khó chế tác, có độ mịn 1,18mm. Vì là loại khoáng thô nên nắp ấm thường có hình răng cưa cao thấp không đồng đều, nên việc làm cho nắp ấm khít cũng khó khăn hơn. Do khó chế tác nên thành phẩm từ loại nguyên liệu này thường rất ít, để làm ra một chiếc ấm phải trải qua 3-5 lần nung.

Bên trên là 7 loại đất làm ấm tử sa thường được sử dụng. Tuy nhiên mỗi loại đất lại có đặc tính khác nhau nên chúng cho ra thành phẩm hoàn toàn khác biệt và có giá thành khá khác nhau.

2. Đất hồng sa 

Đất Hồng sa (Hong ni) có nhiệt độ chịu nung khoảng 1100°C và độ co ngót so với ban đầu khoảng 14%. Về màu sắc đất Hồng sa có màu đỏ cam là chủ yếu, và vì Hồng sa nguyên khoáng gốc là tử sa nên nó có cả màu đỏ-nâu. Đặc biệt đất hồng sa cũ đã được khai thác lâu) có màu đỏ sậm.

3. Đất lục sa

Đất Lục sa (Lu ni) nguyên khoáng được mô tả là có các chấm màu xanh nhạt (light-green) và là loại đất hiếm trong tự nhiên, nhiệt độ chịu nung của nó khoảng 1160°C và độ co ngót so với ban đầu khoảng 14%. Cũng do Lục sa là đất hiếm và kết cấu màu sắc không bền nên đất Lục sa thường hay được phối với các loại đất khác hoặc các nguyên liệu khác khi làm ấm

4. Đất đoàn sa

Đất Đoàn sa (Duan ni) nguyên khoáng được mô tả có màu vàng là chủ yếu, ngoài ra còn có màu be hoặc vàng be và cũng là loại đất hiếm trong tự nhiên, nhiệt độ chịu nung của nó khoảng từ 1175°C – 1180°C, độ co ngót so với ban đầu khoảng 12% .

5. Đất chu sa 

Trong tự nhiên Chu sa (Zhu ni) nguyên khoáng là loại đất có nhiệt độ chịu nung cao nhất khoảng 1700°C và độ co ngót so với ban đầu khoảng từ 18% – 25%.

TỔNG KẾT: 

Về cơ bản, đất sét tử sa Nghi Hưng được sử dụng thành 3 nhóm chính để sản xuất ấm tử sa bao gồm đất nguyên khoáng, đất phối và đất nhân tạo. Trong đó, đất nguyên khoáng có 5 loại nguyên khoáng. Và 5 loại nguyên khoáng này mỗi loại lại được phân thành nhiều loại khác nhau nữa. Tổng cộng tất cả có 25 loại đất cơ bản dùng sản xuất Ấm Tử Sa mà khi chúng ta mua một chiếc ấm, chúng ta thường biết ấm đó được làm bằng chất liệu đất nào:

Đang cập nhật …

Trà Ô Long

Trà Ô Long ( Oolong) là một loại trà truyền thống có nguồn gốc từ Phúc Kiến – Trung Quốc, được sản xuất qua một quá trình độc đáo: Lá trà được làm héo dưới ánh mặt trời và trải qua quá trình oxy hóa và đạt đến mức oxy hóa mong muốn Các lá trà sau đó được sấy diệt men (ở một mức nhiệt độ nhất định) để ngăn chặn quá trình oxy hóa và được định hình, cuối cùng là sấy khô.

Đây là loại trà bán oxy hóa, tức là loại trà được kiểm soát và dừng lại trước khi lá trà được oxy hóa hoàn toàn, do vậy mà trà Ô Long được mô tả là ở giữa trà xanh và trà đen.

Trà Ô Long

Trong văn hóa trà Trung Quốc, trà Ô Long được chia thành nhiều nhóm. Hương vị của mỗi nhóm trà lại khác nhau tùy thuộc vào vườn trồng trà và phong cách chế biến của mỗi nơi sản xuất.

Một số chất oxy hóa chính có trong trà Olong là polyphenol, theaflavin, thearubigins và EGCG. Đây là những chất có nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.

Trà Ô Long là một giống trà quý, chỉ phù hợp với vùng cao nguyên có khí hậu ôn đới – Trước kia vốn chỉ được trồng và sản xuất ở Trung Quốc tại 3 vùng: Phúc Kiến – Quảng Đông – Đài Loan. Các dòng nổi tiếng:

  • Đại Hồng Bào – Trà núi đá Vũ Di (Bắc Phúc Kiến).
  • Thiết Quan Âm – An Khê (Nam Phúc Kiến).
  • Ô long Đài Loan 
  • Ô long Pao Chửng 

Hiện nay, giống trà Ô long đã được trồng và chế biến tại Việt nam, chủ yếu tại các vùng như:  Lâm Đồng (Bảo Lộc, Cầu Đất – Đà Lạt), Mộc Châu, Yên Bái… Các giống được trồng tại Lâm Đồng là giống Cao Sơn Ô long Đài Loan.

Công dụng của trà Ô long:

  • GiCholesterol: Trà được oxy hoá một phần như Ô long chứa polyphenol có khả năng kích hoạt enzyme hoà tan chất béo, giảm cholesterol và tăng cường sức khoẻ tim mạch. 
  • Tăng trao đi cht, giúp gim cân: Trà Ô long giúp bạn đốt cháy mỡ thừa nhanh hơn bằng cách tăng cường sự trao đổi chất kéo dài 2 giờ sau khi sử dụng. Ngoài ra trong trà cũng chứa polyphenol có khả năng ức chế enzyme tạo chất béo, điều này có nghĩa là bạn có thể giảm cân với trà Ô long, miễn là bạn đừng uống nó với đường.                                    
  • Tăng s tnh táo: Trà là một loại chất dinh dưỡng giúp tăng hiệu suất của não một cách tự nhiên, vì nó có chứa caffeine. Nếu nhạy cảm với caffeine – hãy pha nhạt hơn và uống ít hơn.
  • Tăng cường h thng min dch: Thường được gọi là đặc tính chống ung thư, trà Ô long hỗ trợ duy trì một hệ miễn dịch khoẻ mạnh, ngăn ngừa tổn thương tế bào, protein chống vi khuẩn cao hơn ở những bạn hay uống trà.
  • Bo v đường tiêu hoá: Với những người không nhạy cảm với caffeine, trà giúp kiềm hoá đường tiêu hoá, giảm viêm với những bạn bị tăng lượng axit gây loét dạ dày. Nó còn có tính sát trùng, tiêu diệt vi khuẩn gây hại vùng bụng. Hương vị mịn màng cũng giúp làm dịu dạ dày của người dùng
  • Làm tóc chc khe: Gội đầu bằng lá trà, hàm lượng các chất chống oxy hoá cao trong trà ngăn ngừa sự rụng tóc, nó còn giúp tóc bạn dày, mềm và bóng.
  • Ci thin tình trng ca da: Nếuda nhạy cảm và bị dị ứng, trà có thể giúp kìm hãm dị ứng vì nó giúp chống lại các gốc tự do, đó là đặc tính y học của các chất chống oxy hoá trong trà. Các chất này cũng cần thiết giúp da đàn hồi và trẻ trung, làm chậm quá trình lão hoá, một thức uống chống lão hoá tuyệt vời nhỉ!
  • n đnh lượng đường trong máu: Những người bị tiểu đường sẽ được hưởng lợi từ việc uống trà Ô long, polyphenol có trong trà là một chất kỳ diệu trong quá trình chuyển hoá đường, giảm lượng glucose trong máu.
  • Nga loãng xương và giúp xương chc kho: Những người uống trà thường xuyên ít có khả năng bị giảm mật độ khoáng trong xương, giúp giữ lại các khoáng chất hữu ích trong thực phẩm. Lá trà còn cung cấp cho bạn canxi và magie.
  • Nga sâu răng: Trà Ô long cũng như trà xanh bảo vệ răng khỏi axit tiết ra bởi các loại vi khuẩn nhất định trong miệng, ức chế vi khuẩn và ngăn ngừa mảng bám.
  •                                      

Lục Vũ Thần Trà

Lục Vũ (728-804) tự Lục hồng Tiệm, một danh y thời Nhà Đường, là người huyện Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc. Thời niên thiếu ông ở trong một nhà chùa Phật giáo. Dưới thời trị vì của Hoàng đế Lý Long Chi, còn gọi là Đường minh Hoàng (712-755), tỉnh Long Trưởng, nơi mà Lục Vũ sinh ra, đã phát hiện tài năng của ông và giúp ông được vào trường học.

Ông là người thực sự có tài, học hành chăm chỉ và được xã hội biết tiếng rất nhanh, nên được bổ nhiệm dạy học Hoàng Thái tử. Sau lại được tiến cử vào làm việc cho Thượng thư Bộ Lễ, nhưng ông không nhận.

Lục Vũ từ chối con đường làm quan, ham học tập, nghiên cứu và giao dịch với giới trí thức, văn nhân. Ông rất yêu thích cây chè, nghiên cứu thực tiễn cây chè một cách bền bỉ không mệt mỏi, nên rất thành thạo về gieo trồng, chọn giống, chế biến và uống trà.

lục vũ thần trà

Lục Vũ là người nghiên cứu về trà đạo. Tác phẩm Trà kinh là bộ sách lý luận Trà học chuyên môn đầu tiên trên thế giới bao gồm 10 chương.

Ngoài 10 chương của Trà Kinh, Lục Vũ còn tổng kết lần đầu tiên trên thế giới cách uống trà trong cuốn Trà Kinh thành Cửu đạo trà – 9 cách uống trà bao gồm 9 chữ: phẩm, ôn, đầu, trúng, mân, phục, chân, kính, ẩm.

Lục Vũ được người đời sau tôn lên là Trà thánh hoặc gọi là Thần Trà

Các loại trà truyền thống Nhật Bản

Trà là một loại đồ uống quan trong trong đời sống hàng ngày tại Nhật Bản. Đối với người Nhật, uống trà đã được đưa lên thành Trà Đạo với những cách thưởng thức rất công phu, tỉ mỉ và nhiều thời gian.

image: sweet of japan

Tại Nhật, trà xanh gọi là “Ocha”, và trà đỏ gọi là “Kocha”. Trà xanh thành phẩm dùng để làm thức uống phổ biến. Dưới đây là một số loại trà truyền thống mà người Nhật Bản thường sử dụng hằng ngày:

1. Trà xanh Ryokucha

Nói về trà ở Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến trà xanh. Như đúng tên gọi, Ryokucha có màu xanh và được chia thành nhiều loại dựa trên thời điểm hái lá và mức độ hấp thụ ánh sáng mặt trời. Trà xanh có vị nhẹ như cỏ, không gắt. Không chỉ riêng gì Nhật Bản, nhiều quốc gia khác cũng cực chuộng loại trà này.

2. Cặn trà Konacha

Loại trà này sử dụng hết tất cả những gì còn sót lại của trà xanh, bao gồm vụn trà, búp trà và lá trà nhỏ. Đây là những loại trà phục vụ miễn phí ở các quán ăn, đặc biệt là các quán sushi bởi vì sushi và cặn trà luôn là cặp bài trùng đi đôi với nhau.

3. Trà Sencha

Sencha – loại trà xanh nổi tiếng của xứ sở hoa anh đào, được hấp ngay sau khi hái xuống từ cây (trong trạng thái lá trà vẫn còn tươi). Sở dĩ người ta phải thực hiện ngay công đoạn này bởi để tránh quá trình lên men vốn xảy ra rất nhanh ở trà.  Bằng cách làm như vậy trà xanh sẽ giữ được hương vị Sencha thơm ngon lâu hơn các loại trà khác. Tùy thời gian hấp mà độ tươi của trà thay đổi, thời gian hấp càng lâu thì độ tươi càng giảm và kèm theo đó là màu trà càng chuyển sang màu xanh lục.

Các cấp độ hấp trà (theo thứ tự thời gian từ ít đến nhiều) của sencha: Asa-mushi (hấp sơ) – Chu-mushi (hấp vừa) – Fuka-mushi (hấp sâu) – Toku-mushi (hấp lâu) – Goku-mushi (hấp 2 lần)

Để phân biệt trà Sencha cũng hơi phức tạp bởi nó được chia làm nhiều loại, tuy nhiên phổ biến nhất là dựa vào độ tươi và màu sắc của thành phẩm. Sắc xanh lục là biểu thị cho lá trà đã được hấp nhiều giờ và rất kĩ.

4. Trà Bancha

Sau thời gian thu hoạch để làm trà Sencha từ cuối tháng 2 đến hết tháng năm thì chồi non và lá trà bắt đầu phát triển. Đây chính là thời gian thu hoạch để làm trà Bancha. Với trà được làm từ lá trà trong tháng 6 thì gọi là nibancha, trong tháng 8 gọi là sanbancha và trong tháng 10 gọi là yonbancha. Trà bancha được làm từ thân trên ngọn cây và những lá trà già hơn và bị loại ra trong quá trình sản xuất sencha.

So với sencha, trà Bancha chát hơn và không thơm bằng nên nó được sử dụng để làm thức uống nhẹ sau bữa ăn. Trà bancha chứa nhiều flor hơn các loại trà khác nên nó có tác dụng chống sâu răng và hôi miệng. Trà bancha được làm từ các lá trà non hơn, có mùi thơm dễ chịu và ít chát hơn được gọi là “senryu”

5. Trà gạo rang Genmaicha

Genmaicha chính là tổng hợp từ trà Sencha trộn thêm gạo rang được làm từ “gạo lứt” nguyên cám (là gạo chưa bóc vỏ lụa, tức là “genmai”). Gạo rang sẽ đem lại hương thơm đặc trưng cho genmai-cha.

Đặc điểm của thức uống này chính là trộn gạo rang và trà với tỉ lệ 1:1 nên loại trà này nhạt và ít caffein hơn trà nguyên chất Sencha. Vậy nên Genmai-cha rất được ưa chuộng dùng vào buổi tối và dành riêng cho người già và trẻ nhỏ, những người có sức khỏe nhạy cảm.

6. Trà sao Hojicha

Khác với hai loại trà ở trên Hojicha được sao ở nhiệt độ cao để tạo ra thành phẩm có màu nâu đặc trưng riêng và hương thơm ngào ngạt. Nhiệt độ chuẩn nhất là 200 độ C. Đặc biệt khi trà đạt độ chín tới thì nghệ nhân phải đưa ra khỏi máy sao và làm lạnh ngay để giữ cho hương vị trà không bị nồng quá mức, chính vì vậy người chế biến đòi hỏi phải có tay nghề và kĩ thuật ổn định. Khi pha Hojicha có mùi thơm nồng rất lâu và cực kì dễ uống cho mọi đối tượng.

7. Trà bột Matcha

Đây là loại trà được dùng trong trà đạo Nhật Bản. Ở dạng chưa nghiền bột được gọi là “Tencha”. Matcha có màu xanh sáng và độ ngọt cũng như độ chát tùy theo độ sáng của bột. Matcha càng sáng màu thì càng ngọt.

Khi cây chè lên khoảng 2-3 lá non thì người ta dùng vải mỏng hoặc mành che ánh nắng mặt trời không cho chiếu vào các chồi non. Trong quá trình làm tencha, người ta sấy khô sau khi đã hấp chồi non. Trong quá trình sấy khô, gân lá và thân mảnh được loại bỏ trước khi đem nghiền thành bột.

Matcha rất dễ dùng, là một thức uống thơm ngon, bổ dưỡng làm tinh thần con người phấn chấn, dễ chịu hơn sau cả ngày dài mệt mỏi. Matcha có thể hòa tan trong nước nên nó cung cấp toàn bộ chất dinh dưỡng khi thưởng trà. Bột matcha cũng là một nguyên liệu trong rất nhiều các món ăn truyền thống ở Nhật Bản.

8. Trà cành Kukicha

“Kuki” trong tiếng Nhật nghĩa là “thân” hay “cành”, chính vì vậy Kukicha là thứ trà được làm từ các cành chồi non, có vị ngọt thanh và hương thơm thoang thoảng đặc biệt. Khi pha mùi vị trà lan tỏa khắp nơi khiến chỉ cần ngửi thôi cũng thấy nhẹ nhàng hơn rồi.

9. Trà búp Mecha

Mecha là loại trà quý phái nhất trong danh sách các loại trà truyền thống của người Nhật, được tuyển chọn kĩ càng trong khâu nguyên liệu, đồng thời công đoạn chế biến cũng rất tinh tế. Mecha là trà búp non chọn trong quá trình chế biến các loại trà cao cấp nên có vị ngọt và vị đậm tự nhiên lôi cuốn người dùng.

10. Trà cuốn Tama-ryokucha

Dạng trà này đặc biệt hơn một chút so với các thứ trà khác ở chỗ chúng được bỏ qua giai đoạn chuốt thẳng khi chế biến, mà thường chỉ cho vào lò sấy quay bằng gió nhiệt. Điều đó tạo cho Tam-ryokucha hình dạng cuộn tròn chứ không thẳng và có vị chát dịu, nên khi thưởng thức du khách chỉ nên nhấm nháp từng chút một.

11. Trà mới Shincha

Vào mùa đông ở Nhật Bản rất lạnh giá. Băng tuyết trùm lên tất cả các trang trại trồng chè. Lúc này, những cây chè tạm thời ở trạng thái ngừng hoạt động và lớn lên. Đồng thời vị ngon cơ bản thứ năm, umani của những lá chè được ủ kín. Khi thời tiết ấm lên, cây chè thức dậy, phát triển các chồi bíp, hương vị chè trở nên bung tỏa mạnh mẽ hơn. Mùa thu hoạch chè mới phụ thuộc vào thời tiết, thường thì qua một quãng thời gian lạnh lẽo, khi trời vừa ấm lên.

Những lá trà được hái đầu tiên rất tươi ngon và ngọt ngào, được người dân Nhật Bản gọi bằng cái tên thông dụng “ichibancha” hơn là shincha. Ở Nhật có quan niệm rằng những ai uống loại trà mới được chọn vào ngày thứ 88 sau ngày xuân phân (ngày 04 tháng 2) sẽ có thể có một năm dồi dào sức khỏe. Shincha giàu axit amin, vitamin và hầu hết chỉ được phân phối tại thị trường Nhật Bản.

Nguồn: tổng hợp từ internet

error: Content is protected !!